Tối ưu năng lực kết nối logistics nội địa và quốc tế

Ngày 06-04-2024 Lượt xem 14
Tối ưu năng lực kết nối logistics nội địa và quốc tế

Quá trình hội nhập quốc tế mở ra rất nhiều cơ hội xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam; trong đó, có đóng góp lớn của ngành logistics. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế biến động, cạnh tranh gay gắt thì việc cải thiện khả năng kết nối mạng lưới logistics nội địa với mạng lưới logistics quốc tế đang là yêu cầu cấp thiết.

Đây là nội dung được nhiều chuyên gia bàn luận tại Diễn đàn logistics với khu vực châu Âu - châu Mỹ 2023 do Bộ Công Thương tổ chức tại TP Hồ Chí Minh, ngày 21/12.

Còn nhiều thách thức 

Ông Tạ Hoàng Linh, Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, Bộ Công Thương cho biết: logistics được xác định là ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đất nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao cạnh tranh của nền kinh tế. Với vị trí đặc biệt nằm khu vực phát triển năng động thế giới, là nơi tập trung nguồn hàng, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu và phát triển dịch vụ logistics. 

Thời gian qua, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể; đến nay đã có gần 35.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực logistics; trong đó, có khoảng 5.000 doanh nghiệp chuyên nghiệp. Theo báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới công bố năm 2023, Việt Nam đứng thứ 43 bảng xếp hạng chỉ số hiệu quả logistics và thuộc nhóm 5 nước dẫn đầu ASEAN. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường thế giới đầy biến động, kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn, tổng cầu thế giới sụt giảm, sức ép với ngành logistics trong việc tối ưu hóa để cạnh tranh, giành được đơn hàng càng trở nên gay gắt hơn.

Cùng quan điểm, ông Chandler So, Giám đốc điều hành GEODIS Việt Nam cho rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á đang phát triển năng động và là đối tác kinh doanh quan trọng của châu Âu và châu Mỹ. Với những biến động thời gian gần đây, Việt Nam đang dần tiếp nhận một số đơn hàng cho các sản phẩm nhập khẩu trước đây từ Trung Quốc.

Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang châu Âu và châu Mỹ là sản phẩm điện tử, máy móc và thiết bị điện, giày dép, dệt may, cà phê, gạo, thủy sản, máy móc công nghiệp và đồ nội thất; trong đó, Việt Nam có lợi thế lớn nhờ việc ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), hầu hết thuế xuất khẩu trong trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước EU đều được bãi bỏ.

Mặc dù vậy, tác động của suy giảm nhu cầu tiêu dùng toàn cầu đang ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động thương mại và logistics ngày càng khó khăn. Chuỗi cung ứng đã trở nên phức tạp hơn với nhiều bên liên quan và mạng lưới kết nối với nhau. Sự phức tạp này đặt ra những thách thức về sự phối hợp, khả năng quản lý rủi ro.

Theo ông Chandler So, nhu cầu tiêu dùng biến động liên tục đòi hỏi các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần phải phản ứng nhanh. Đáp ứng các mô hình nhu cầu thay đổi trong khi vẫn duy trì hiệu quả là một thách thức đáng kể. Sự gián đoạn như thiên tai, căng thẳng địa chính trị, tranh chấp thương mại hay đại dịch có thể tạo ra những thách thức lớn cho ngành logistics dẫn đến sự chậm trễ, tăng chi phí và tắc nghẽn chuỗi cung ứng.

Với mạng lưới logistics nội địa, ông Trương Nguyên Linh, Phó Tổng Giám đốc Cảng container Quốc tế Việt Nam (VICT) cho biết, khó khăn của hoạt động vận chuyển hàng hoá hiện nay là hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ và đường thuỷ nội địa kết nối với cảng còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.

Cụ thể, các tuyến đường bộ kết nối vào cảng ở nhiều thời điểm bị quá tải, kẹt xe, ảnh hưởng đến lộ trình và chi phí cho doanh nghiệp. Trong khi đó, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc nhưng chưa khai thác được nhiều cho việc vận chuyển hàng hoá đến các cảng ở TP Hồ Chí Minh nhằm tiết kiệm chi phí. Các luồng lạch đường thuỷ kết nối từ cảng ra biển cũng chưa đáp ứng được nhu cầu qua lại của các tàu lớn. 

Ông Nguyễn Xuân Hùng, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần vận tải và Thương mại đường sắt Ratraco cho biết, ưu thế của vận chuyển đường sắt là tiết kiệm chi phí hơn vận chuyển đường bộ và nhanh hơn đường thủy. Tuy nhiên, loại hình này ở Việt Nam đang bị hạn chế bởi điều kiện hạ tầng.

Việt Nam hiện có tổng cộng hơn 3.000 km đường sắt trải dài từ Nam ra Bắc; trong đó, chỉ có 15% chiều dài có đường ray đạt chuẩn quốc tế (rộng 1,435m) cho phép vận chuyển hàng hoá nhanh hơn. Với phần lớn chiều dài đường sắt hẹp, vận tốc vận chuyển tối đa chỉ đạt 80km/giờ, trong khi đường sắt quốc tế có thể đạt vận tốc 160 km/giờ. Đơn cử như việc vận chuyển hàng từ ga TP Hồ Chí Minh hoặc Đồng Nai ra Hà Nội để tiếp cận hệ thống đường sắt quốc tế đã mất đến 4 ngày. Vì vậy, số lượng hàng hoá được vận chuyển bằng đường sắt trong nội địa Việt Nam và kết nối với thị trường xuất khẩu đều rất ít so với rất nhiều quốc gia khác. 

Tìm kiếm
Danh mục
Kết nối
wiget Chat Zalo
Messenger Chat